Vừa qua, các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Hùng Vương (Phú Thọ) đã tiếp nhận một trường hợp nguy kịch do điều trị nấm miệng sai cách.
Cụ thể, bé trai (gần 2 tuổi, quê Phú Thọ) được người nhà đưa đến viện trong tình trạng nguy kịch: vật vã, kích thích, sốt cao, tinh thần lơ mơ, không tỉnh táo.
Theo lời kể người nhà, bé bị nấm miệng nên gia đình đã mua thuốc cam để đánh tưa lưỡi cho con trong suốt 7 ngày. Tuy nhiên, sau đó, thấy con xuất hiện các triệu chứng nghiêm trọng nên gia đình vội đưa đi cấp cứu.
Thuốc cam gia đình dùng để đánh tưa lưỡi cho trẻ. Ảnh: BVCC.
Tại Bệnh viện Đa khoa Hùng Vương, sau khi thăm khám, các bác sĩ cho biết trẻ bị biến chứng nghiêm trọng bao gồm sốc nhiễm khuẩn, rối loạn chuyển hóa nặng nên ngay lập tức được đặt ống nội khí quản, thở máy và chuyển cấp cứu lên Bệnh viện Nhi Trung ương.
Tại đây, bé tiếp tục được thở máy, lọc máu nhưng tình trạng vẫn rất nguy kịch.
Trên thực tế, việc trẻ gặp họa do người lớn dùng thuốc cam chữa bệnh không phải là hiếm. Trước đó, vào tháng 2/2024, một bệnh nhi 9 tuổi ở Hà Tĩnh được chuyển đến Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng ngộ độc chì nặng sau khi gia đình dùng thuốc cam không rõ nguồn gốc cho trẻ uống để chữa bệnh động kinh.
Hoặc tại các Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn, Bệnh viện Sản Nhi Phú Thọ và nhiều bệnh viện trên cả nước cũng đã tiếp nhận các trường hợp trẻ phải nhập viện do người lớn dùng thuốc cam để chữa tiêu chảy, biếng ăn, lở loét miệng… Nhiều trẻ may mắn được cứu sống nhưng cũng có những trẻ không qua khỏi do ngộ độc quá nặng.
Thận trọng ngộ độc chì do dùng thuốc cam chữa bệnh cho trẻ
Thuốc cam được biết đến là một loại thuốc Đông y có thành phần từ rất nhiều những cây thuốc Nam và dược liệu kết hợp lại. Từ xưa, loại thuốc này đã được truyền miệng có thể giúp con hết biếng ăn, mau tăng cân hoặc dùng để chữa các bệnh lở loét, tưa lưỡi, viêm nhiễm, tiêu chảy…cho trẻ em.
Tuy nhiên, ở những loại thuốc cam không rõ nguồn gốc, nguy cơ nhiễm chì là rất cao. Vì vậy, các chuyên gia y tế đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo về nguy cơ ngộ độc chì trong thuốc cam không rõ nguồn gốc nhưng trên thực tế, nhiều phụ huynh vẫn quá tin tưởng vào loại “thần dược” này.
Họ cho rằng thuốc cam có thể giúp trẻ tăng cân, chữa lành một số bệnh thông thường hoặc có thể dùng để vệ sinh lưỡi cho trẻ. Những sai lầm này có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho trẻ, trong đó, nguy hại nhất là trường hợp trẻ tử vong do ngộ độc chì sau khi được dùng thuốc cam chữa bệnh.
Theo bác sĩ CKII Nguyễn Tân Hùng, Phó Trưởng khoa Cấp cứu và Chống độc, Bệnh viện Nhi Trung ương, chì là chất rất độc hại cho sức khỏe, gây tổn thương nhiều cơ quan như thần kinh, xương, hệ huyết học, máu, gan, thận, hệ tiêu hóa, tim mạch. Khi vào cơ thể, chì có thể tích lũy lâu trong nội tạng, đặc biệt là xương và phải mất hàng chục năm mới có thể thải trừ ra ngoài.
Riêng đối với trẻ nhỏ, chì đặc biệt nguy hại do chúng tích lũy trong xương lâu dài khiến trẻ còi cọc, chậm phát triển thể chất. Kim loại này còn gây thiếu máu, có trường hợp tổn thương não không hồi phục dẫn tới các di chứng nặng nề như chậm phát triển trí tuệ, co giật.
Cũng theo BS Hùng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc chì như tiếp xúc với môi trường ô nhiễm từ các khu công nghiệp, nguồn nước nhiễm chì, sơn tường, xăng dầu nhiễm chì, pin, đồ chơi bằng nhựa có sơn chì, đồ hộp đựng thức ăn có hàn chì đặc biệt, dùng các loại thuốc nam được dân gian gọi là thuốc cam không rõ nguồn gốc là một trong những nguyên nhân hàng đầu và phổ biết nhất gây ngộ độc chì ở trẻ em.
Vì vậy, để tránh nhiễm độc chì cho trẻ, các chuyên gia khuyến cáo, bố mẹ không nên tự ý dùng các loại thuốc, nhất là thuốc cam, thuốc nam không rõ nguồn gốc, không có giấy phép kinh doanh để điều trị bệnh cho trẻ.
Bên cạnh đó, gia đình cũng cần thực hiện tốt vệ sinh cá nhân cho trẻ: rửa tay, cắt móng tay, không đưa tay và mọi vật lên miệng; vệ sinh môi trường sống sạch sẽ, hạn chế để trẻ nhỏ tiếp xúc với đồ chơi không rõ nguồn gốc xuất xứ có thể nhiễm chì và các kim loại nặng khác.
Nếu trẻ có biểu hiện bất thường, nên đưa trẻ đi khám tại các cơ sở y tế để được xác định nguyên nhân và điều trị kịp thời, tránh biến chứng nặng có thể xảy ra.
Dấu hiệu trẻ bị nhiễm độc chì
– Về thần kinh:
Các biểu hiện cấp tính: kích thích, co giật, lơ mơ, hôn mê, liệt.
Các biểu hiện lâu dài, không điển hình: chậm phát triển nhận thức, tinh thần, giảm khả năng nghe, mất các kỹ năng học tập, thay đổi thái độ hành vi, mệt mỏi.
– Về tiêu hóa: Nôn, đau bụng, chán ăn.
– Về máu: Da xanh xao, cơ thể gầy yếu do thiếu máu.
– Ngoài các triệu chứng rõ rệt như trên, trẻ nhiễm độc chì còn có rất nhiều biểu hiện kín đáo, chỉ có thể phát hiện bằng các xét nghiệm định lượng chì trong máu.
Xem thêm: Bé trai 1 ngày tuổi không qua khỏi vì mẹ chọn sinh chủ động ở tuần 36
Sinh con qua ngả thường là phương pháp sinh lý và tốt nhất cho mẹ và thai nhi. Việc phẫu thuật để đưa thai nhi ra ngoài chỉ nên thực hiện khi bác sĩ đề nghị. Thường là trong trường hợp mẹ có bệnh lý hoặc quá trình chuyển dạ phát sinh vấn đề, không thể sinh thường.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xu hướng mổ đẻ chủ động trở nên phổ biến. Nhiều người lớn tuổi tin rằng, khi chưa có cơn co thắt chuyển dạ, việc đưa thai nhi ra ngoài là trái với tự nhiên, bởi em bé chưa có dấu hiệu chào đời. Việc sinh mổ chủ động cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ sơ sinh sau khi chào đời.
Chia sẻ với các mẹ về các trường hợp em đọc trên báo gần đây. Theo Hà Nội Mới, tại Trung tâm Sơ sinh (Bệnh viện Nhi Trung ương), chỉ trong chưa đầy 1 tuần, các bác sĩ đã tiếp nhận 6 trẻ sinh mổ chủ động gặp các biến chứng nặng. Trong đó có 2 trường hợp nặng nhất.
Ảnh minh họa (Nguồn Ettoday)
Trường hợp đầu tiên là bé 1 ngày tuổi ở Thái Bình. Do đã từng sinh mổ lần 1, gia đình lo lắng có thể xảy ra biến chứng nên quyết định sinh mổ chủ động khi thai nhi được 37 tuần. Sau sinh, trẻ được hỗ trợ thở thở áp lực dương liên tục qua mũi. Tuy nhiên, tình trạng suy hô hấp tiến triển, trẻ được đặt nội khí quản chuyển đến Trung tâm Sơ sinh (Bệnh viện Nhi trung ương). Bệnh nhi vào viện trong tình trạng tổn thương phổi nặng, suy tuần hoàn. Sau 7 ngày điều trị, may mắn, tình trạng của trẻ đã cải thiện và ổn định.
Trường hợp thứ hai không may mắn như vậy, là bé trai 1 ngày tuổi ở Nam Định. Mẹ bé từng nằm theo dõi thai kỳ tại bệnh viện 1 tuần. Tuy nhiên, gia đình quá lo lắng và mong muốn sinh mổ khi chưa có cơn chuyển dạ. Trẻ được đẻ mổ chủ động ở tuần thứ 36. Sau sinh, trẻ suy hô hấp, tăng áp phổi nặng và được chuyển tới Bệnh viện Nhi trung ương trong tình trạng tím tái, suy tuần hoàn… Mặc dù đã được hồi sức tích cực nhưng tình trạng không cải thiện. Sau 3 ngày, em bé đã không qua khỏi.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mổ lấy thai chủ động khi không có chuyển dạ khiến nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp ở trẻ cao gấp 2,6 lần so với mổ đẻ có chuyển dạ và cao gấp 1,9 lần so với đẻ thường. Tỷ lệ mổ lấy thai ở nhiều nước trên thế giới cũng có xu hướng tăng nhanh trong vòng 20 năm trở lại đây, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Mổ lấy thai tuy thuận tiện, không rắc rối nhưng không phải phù hợp với tất cả mọi người, các chuyên gia cho rằng tỷ lệ sinh mổ thích hợp có thể giảm tỷ lệ t.ử vong ở trẻ sơ sinh và an toàn hơn cho thai nhi nhưng lại rất có hại cho em bé. Dưới đây, chúng ta hãy nói về những mối nguy hiểm lớn của việc sinh mổ đối với thai nhi:
1. Bé trai sinh mổ có khả năng miễn dịch thấp hơn
Cũng sinh mổ nhưng khả năng miễn dịch của bé trai dễ bị suy giảm hơn so với bé gái. Các bác sĩ sản khoa đã lấy m.áu tĩnh mạch của 63 bé gái và 69 bé trai mới sinh và so sánh các globulin miễn dịch trong đó.
Có 68 trường hợp sinh thường và 64 trường hợp mổ lấy thai. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có rất ít sự khác biệt về khả năng miễn dịch giữa bé trai và bé gái sinh thường, so với sinh mổ. Trẻ sinh mổ có khả năng miễn dịch và chống nhiễm trùng tương đối kém, hiện tượng này nổi bật hơn ở bé trai.
Ảnh minh họa (Mombaby)
Các chuyên gia giải thích rằng gen kiểm soát quá trình tổng hợp globulin miễn dịch (chủ yếu dùng để tăng khả năng miễn dịch của con người) nằm trên nhiễm sắc thể X của con người và phụ nữ có nhiều hơn một nhiễm sắc thể này so với nam giới, vì vậy, bé gái có khả năng miễn dịch mạnh hơn bé trai.
Trong nghiên cứu, các chuyên gia đã so sánh hàm lượng bổ thể trong máu tĩnh mạch rốn của trẻ sơ sinh sinh thường và sinh mổ.Trong đó, hàm lượng globulin miễn dịch trong máu cuống rốn của trẻ sơ sinh ở nhóm sinh thường cao hơn đáng kể so với sinh mổ. Nhóm globulin miễn dịch được lấy từ người mẹ trong quá trình chuyển dạ, đặc biệt là khi đi qua ống sinh, do sức ép của các cơn co t.ử cung. Từ quan điểm này, sinh mổ có thể làm giảm khả năng miễn dịch và khả năng chống nhiễm trùng của trẻ sơ sinh và tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh. Vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo, khi có điều kiện, tốt nhất mẹ nên sinh con tự nhiên, điều này sẽ có lợi hơn cho sức khỏe của trẻ sơ sinh.
2. Trẻ sinh mổ dễ mắc chứng rối loạn hòa nhập
Tại một số bệnh viện ở Bắc Kinh, tỷ lệ mổ lấy thai có khi lên tới 50%. Các chuyên gia cho rằng, ngoài những trường hợp phải sinh mổ, thực tế nhiều phụ nữ còn sợ đau đớn, muốn giữ dáng thon gọn, thậm chí còn tính đến cuộc sống hôn nhân hài hòa sau này. Tuy nhiên, những bà mẹ tương lai này có thể không biết rằng trẻ sinh mổ dễ bị rối loạn hòa nhập.
Rối loạn tích hợp cảm giác có thực sự liên quan đến sinh mổ? Cái gọi là rối loạn hòa nhập có nghĩa là những gì trẻ nghĩ và những gì trẻ làm không giống nhau, suy nghĩ của trẻ thường không thể kiềm chế được hành vi của mình, và việc sinh mổ quả thực là nguyên nhân dẫn đến rối loạn khả năng hòa nhập của trẻ.
Mỗi chuyển động của thai nhi trong cơ thể người mẹ đều liên quan mật thiết đến vận mệnh tương lai của nó, quá trình sinh nở bình thường của thai nhi trong đường sinh của mẹ cũng là cơ hội đầu tiên để não và cơ thể phối hợp với nhau. Đứa trẻ có quyền đầu tiên được thực hiện sự tích hợp giác quan. . Những khiếm khuyết bẩm sinh và cách giáo dục trẻ sơ sinh, mầm non chưa khoa học đã khiến xã hội và gia đình có một nhóm trẻ gặp khó khăn trong học tập và hành vi, thậm chí còn bị nhầm là trẻ chậm phát triển trí tuệ vì học lực kém.
Trên thực tế, bài kiểm tra IQ của những đứa trẻ này nhìn chung đều ở mức trên mức trung bình, tuy nhiên, do qua khám tổng quát khó phát hiện các em mắc chứng rối loạn hòa nhập nên khó có thể phục hồi và điều trị kịp thời. Phản ứng thể chất của trẻ rất bất thường, chức năng nhận thức và rối loạn chú ý của chúng ảnh hưởng nhiều hơn đến sự tự ý thức và lòng tự trọng của trẻ. Là cha mẹ, chúng ta nên để con trải nghiệm càng nhiều sự kích thích từ thế giới bên ngoài càng tốt, tham gia nhiều hoạt động ngoài trời hơn, khuyến khích trẻ tự làm mọi việc, kể cả sinh hoạt hàng ngày và ăn uống. Tập thể dục đầy đủ có thể giúp cải thiện khả năng tích hợp não của trẻ.
3. Trẻ sinh mổ dễ bị ADHD
Trong khi nhiều phụ nữ mang thai mong muốn lựa chọn sinh mổ thì tin tức về ADHD xuất viện lại đáng lo ngại: 80% trẻ mắc ADHD tìm cách điều trị bằng phương pháp sinh mổ.
Ảnh minh họa (Nguồn ixua)
Theo phân tích của chuyên gia, sinh mổ làm thay đổi “môi trường” của trẻ khi trẻ chào đời do thay đổi ống sinh, đồng thời tổn thương cảm giác như tiếp xúc thần kinh do quá trình sản sinh ống sinh bình thường khiến trẻ dễ bị tăng động và các bệnh khác khi chúng lớn lên. Các chuyên gia nhắc nhở mọi người không nên mù quáng chọn phương pháp sinh mổ, đồng thời phải điều trị đúng cách cho trẻ mắc chứng ADHD.
4. Trẻ sinh mổ khả năng thích nghi kém
Nhiều người cho rằng trẻ sinh mổ thông minh hơn trẻ sinh thường. Lý do là những đứa trẻ sinh ra qua phẫu thuật sẽ không bị chèn ép, không bị thiếu máu não hay tổn thương não. Đây thực chất là một loại hiểu lầm.
Trong quá trình sinh thường, dù đầu thai nhi sẽ bị ép nhưng sẽ trở lại bình thường sau một hoặc hai ngày. Khi thai nhi bị căng thẳng còn kích thích tuần hoàn máu lên não, cung cấp thêm cơ sở vật chất cho trung tâm hô hấp của não, dễ kích thích thở và khóc sau khi sinh.
Ngoài ra, đầu của thai nhi có thể ép ra nước ối và chất nhầy tích tụ trong phổi, mũi và miệng của thai nhi thông qua sự co bóp của t.ử cung và sức cản của sàn chậu, giúp ngăn ngừa sự xuất hiện của viêm não hô hấp. Có số liệu chứng minh rằng không có sự khác biệt về trí thông minh giữa trẻ sinh mổ và trẻ sinh tự nhiên, nhưng khả năng thích ứng của trẻ sinh mổ kém hơn trẻ sinh tự nhiên.
Da người là cơ quan học tập xúc giác, có phản xạ phòng thủ bình thường, trẻ cần hiểu bản thân và môi trường thông qua da để có phản ứng bình thường với thế giới khách quan. Trẻ sinh mổ mắc chứng rối loạn học tập xúc giác bẩm sinh, biểu hiện ngay từ khi còn nhỏ, không thể thích ứng với các thông tin mà da tiếp xúc như tắm rửa, thay quần áo, thay giường, khả năng thích ứng tương đối kém, hoặc phản ứng bảo vệ quá mức và biểu hiện dễ xúc động, thích khóc, khó ngủ và ngủ không ngon.
5. Mổ lấy thai làm tăng số trẻ mắc “hội chứng phổi ướt”
Số trẻ sơ sinh được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt do “hội chứng phổi ướt” đã tăng gấp đôi trong 5 năm qua, kết quả nghiên cứu cho thấy hơn 70% mẹ sinh mổ, không bị đau đẻ hoặc sinh non. Tất cả đều có nguy cơ mắc bệnh phổi ướt nặng cao hơn, có thể dẫn đến t.ử vong. Các bác sĩ khuyến cáo sản phụ nên sinh con qua đường sinh trước và tránh sinh mổ vì sở thích hoặc sự thuận tiện cá nhân, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của em bé.
Một nghiên cứu cho thấy số ca khó thở thoáng qua ở trẻ sơ sinh, còn được gọi là hội chứng phổi ướt, cần nhập viện tại đơn vị chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh (ICU) đã tăng hơn gấp đôi trong 5 năm qua, từ 20 trường hợp vào năm 2002. Con số này tăng lên 43 trường hợp. trường hợp năm ngoái. Trong số 155 trẻ sơ sinh có các triệu chứng nặng của hội chứng phổi ướt, 71% được sinh bằng phương pháp sinh mổ, khiến trẻ không thể tự làm sạch nước trong phổi. 45% trong số đó được sinh bằng phương pháp sinh mổ trước khi cơn đau chuyển dạ xảy ra.
Dữ liệu cho thấy số lượng nhập viện ICU do hội chứng phổi ướt đang gia tăng hàng năm và tình trạng này có liên quan đến việc ngày càng nhiều phụ nữ mang thai lựa chọn sinh mổ. Các chuyên gia khuyến cáo các bậc cha mẹ tương lai nên sinh con tự nhiên qua đường sinh trước và tránh sinh mổ một cách hấp tấp do các yếu tố bên ngoài như sở thích, chọn ngày hay thậm chí là đặt giường.
6. Tác dụng của liều gây mê đối với thai nhi
Hầu như tất cả các loại gây mê và giảm đau đều có tác dụng ức chế hệ thống trung tâm và chúng có thể dễ dàng đi qua hàng rào nhau thai và xâm nhập vào thai nhi. Vai trò quan trọng của nhau thai là hoạt động như phổi của thai nhi và trao đổi khí. Nhưng hiệu suất trao đổi khí thực tế chỉ bằng 1/150 của phổi. Oxy được má.u mẹ vận chuyển đi vào tuần hoàn máu của thai nhi qua không gian xen kẽ của nhau thai, và carbon dioxide trong máu thai nhi cũng đi vào tuần hoàn máu của mẹ thông qua khuếch tán.
Các loại gây mê có thể ảnh hưởng đến thai nhi theo hai cách, đó là ức chế trực tiếp trung tâm hô hấp và tuần hoàn của thai nhi, hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến thai nhi bằng cách ức chế tuần hoàn hô hấp của mẹ. Việc gây mê quá mức hoặc mẹ bị thiếu oxy do suy hô hấp trong khi phẫu thuật sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp oxy cho bé và thải chất thải trao đổi chất, đe dọa trực tiếp đến sự an toàn tính mạng của bé.
Sinh con tự nhiên là chuyện bình thường của con người, chỉ khi thai nhi hoặc mẹ có vấn đề gì bất thường thì mới nên dùng phương pháp sinh mổ để chấm dứt thai kỳ càng sớm càng tốt. Bởi vì, trong hoàn cảnh bình thường, sinh mổ dù sao cũng là một ca phẫu thuật, tổn thương đối với cơ thể người mẹ lớn hơn rất nhiều so với sinh con tự nhiên, đồng thời sẽ làm trì hoãn quá trình hồi phục sau sinh của người mẹ, đó là chưa kể đến mẹ muốn nuôi con bằng sữa mẹ cũng sẽ ảnh hường. Sinh con, giống như mang thai, là một trải nghiệm bình thường và tự nhiên đối với phụ nữ. Các mẹ nên tin vào sức mạnh của thiên nhiên và tiềm năng của chính mình, củng cố niềm tin vào việc sinh con tự nhiên và trải nghiệm trọn vẹn hành trình này.
Nguồn: https://www.webtretho.com/p/be-trai-1-ngay-tuoi-khong-qua-khoi-vi-me-chon-sinh-chu-dong-o-tuan-36